Về miền Tây sông nước, hầu như bất cứ gia đình nào cũng đều có 1 dãy lu, dãy kiệu đặt bên hiên nhà, bên chái bếp, sau mái hứng nước mưa. Cái lu, cái kiệu trở thành vật dụng không thể thiếu trong đời sống thường nhật của người dân miền sông nước.
- Gợi ý trải nghiệm ba chốn miệt vườn miền Tây xanh mát
- Trà Vinh khai thác tour sông Ba Trường: du lịch miền Tây thêm lựa chọn
- Du lịch mùa này: khám phá miền Tây sông nước
Ông bà xưa quan niệm rằng những hàng lu, hàng kiệu bên hiên nhà còn được coi là biểu tượng kinh tế gia đình. Nhìn những hàng lu, người ta biết gia cảnh của gia chủ thế nào.
Phân biệt cái lu và cái kiệu
Lu, kiệu cũng chỉ là tên gọi, không biết có tự khi nào. Có vùng gọi chung là cái lu không không phân biệt, nhưng cũng có vùng phân biệt cái lu với cái kiệu là khác nhau. Tuy không sinh ra và lớn lên ở miền Tây, nhưng do có cơ duyên đi về Miền Tây nhiều cộng với sở thích tìm hiểu, tôi được dạy rằng cái lu là cái to tròn mập mạp màu xi măng xám xịt, còn cái kiệu là cái dáng cao ráo, màu vàng có vẽ hoa văn hình rồng đẹp mắt, trông sang trọng. Người dân miền Tây mình vì thế cũng thích sắm 1 hàng kiệu đặt bên hiên nhà.
Từ đâu cái lu cái kiệu đi về?
Mặc dù là nơi có hàng triệu người sử dụng lu nhưng hầu hết các lu ở vùng đồng bằng miền Tây từ xưa tới nay được sản xuất ở nơi khác, cụ thể là khu vực miền Đông Nam bộ. Sau đó, lu được các ghe thuyền của thương lái buôn bán đưa đi, qua hệ thống sông ngòi kênh rạch. Ngày xưa, nghề buôn lu được coi là một trong những nghề làm ăn khấm khá của người dân miệt đồng bằng.
Ghe bán lu kiệu
Hầu hết lu của người dân miền tây là lu sành, được sản xuất bằng cách nung đất sét ở nhiệt độ khoảng 500 độ C. Những chiếc lu này dù không phải độ bền vĩnh cửu nhưng rất bền. Có những chiếc lu có tuổi đời tới vài chục năm.
Những cái lu, cái kiệu được ghe lái thương hồ mua trên vùng Lái Thiêu, Thuận An (Bình Dương) hay Biên Hòa (Đồng Nai) đưa về miền Tây bán lại. Đó là những chiếc lu sành được làm từ đất sét trắng nung ở nhiệt độ gần 500 độ C để có độ bền tốt trước điều kiện tự nhiên mưa nắng hai mùa. Ở miền Tây có nhiều chiếc lu có tuổi đời cả trăm năm.
Công dụng của cái lu, cái kiệu
Công dụng phổ biến nhất của lu, kiệu miền Tây là dùng hứng nước mưa hay để dự trữ nước ngọt phù sa về. Ngày xưa, những cặp vợ chồng trẻ khi “ra riêng”, còn thường được ba má tặng cặp lu làm của. Tìm hiểu kỹ hơn về cuộc sống của người dân miền Tây, ta biết thói quen sử dụng lu – kiệu, xuất phát từ điều kiện tự nhiên nơi đây, đặc biệt là mùa nước nổi. Khi đó, những chiếc lu chứa lúa gạo, khoai sắn hay mắm muối của người dân được kê cao lên để đề phòng nước ngập.
Các vựa làm mắm buôn bán thì dùng lu lớn, các gia đình chỉ sử dụng hàng ngày thì dùng lu nhỏ. Mắm cá linh, mắm cá lóc, mắm cá sặc, mắm tôm…, mỗi loại mắm lại phải dùng một loại lu khác nhau. Thậm chí, một loại mắm cũng phải có vài cái lu, tùy từng thời gian mà người ta sẽ trữ mắm. Phía hạ lưu Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau thì có mắm cá biển, mắm rạm, mắm ba khía, mắm tôm tép… vì thế, có nhiều gia đình trong vườn có cả hàng trăm chiếc lu.
Lu kiệu để dự trữ nước ngọt, nước mưa
Nhớ hoài hàng lu kiệu bên hiên nhà.
Giờ đây, ở miền quê đã có nước máy để sử dụng, không còn cảnh đợi nước lớn để gánh vào lu kiệu như những ngày xưa. Mỗi lần đâu đó bắt gặp hình ảnh cái lu, cái kiệu bên hiên nhà, người ta lại thấy hiện ra trước mắt khung cảnh bình yên đến lạ. Nhìn những hàng lu nằm lặng lẽ bên ngôi nhà đơn sơ, người ta cảm giác yên bình, nhẹ nhàng về cuộc sống của người dân vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn này.
Trần Quang Duy